Quá trình hình thành và phát triển của ngôn ngữ Việt Nam
Trước nửa đầu thế kỷ thứ 19
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam từ thời lập quốc, dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường. Để phát triển, tự làm phong phú thêm, tiếng Việt trong thời kỳ này du nhập thêm những từ ngữ Hán cổ như đầu, gan, ghế, ông, bà, cậu..., từ đó hình thành nên hệ thống Hán-Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Bằng cách này, tiếng Việt đã làm giàu thêm từ vựng của mình bằng cách thêm vào hàng loạt các yếu tố Hán Việt. Như là tâm, minh, đức, thiên, tự do... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như nhiệt náo thành náo nhiệt, thích phóng thành phóng thích.... Hoặc được rút gọn như thừa trần thành trần (trong trần nhà), lạc hoa sinh thành lạc (trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng)...; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như phương phi trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", bồi hồi trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động".... Đặc biệt, và giầu sáng tạo hơn, là các yếu tố Hán-Việt được sử dụng để tạo nên những từ ngữ đặc trưng chỉ có trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ sĩ diện, phi công (dùng 2 yếu tố Hán-Việt) hay bao gồm, sống động (một yếu tố Hán kết hợp với một yếu tố thuần Việt). Nói chung tỉ lệ vay mượn tiếng Hán trong tiếng Việt khá lớn (khoảng 25%) nhưng đại đa số những từ đó đều là những từ văn hoá (những từ thể hiện trình độ phát triển của xã hội) và về cơ bản, và chúng đã được Việt hóa cho phù hợp với các điều kiện xã hội, văn hóa tại Việt Nam. Do vậy tiếng Việt vừa giữ được bản sắc riêng của mình, vừa phát triển, tiến hóa và hoàn thiện dần theo nhu cầu và trình độ phát triển của xã hội.
Kể từ đầu thế kỷ thứ 11, Nho học phát triển, việc học văn tự chữ Nho được đẩy mạnh, tầng lớp trí thức được mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng chữ Nho cực kỳ phát triển với cái áng văn thư nổi tiếng như bài thơ thần của Lý Thường Kiệt bên sông Như Nguyệt (Sông Cầu). Cùng thời gian này, một hệ thống chữ viết được xây dựng riêng cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết được phát triển, và đó chính là chữ Nôm. Nhờ có chữ Nôm, văn học Việt Nam đã có những bước phát triển rực rỡ nhất, đạt đỉnh cao với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tiếng Việt, được thể hiện bằng chữ Nôm ở những thời kỳ sau này về cơ bản rất gần với tiếng Việt ngày nay. Tuy hầu hết mọi người Việt đều có thể nghe và hiểu văn bản bằng chữ Nôm, chỉ những người có học chữ Nôm mới có thể đọc và viết được chữ Nôm.
Chữ Nôm được chính thức dùng trong hành chính khi vua Quang Trung lên ngôi vào năm 1789
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam từ thời lập quốc, dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường. Để phát triển, tự làm phong phú thêm, tiếng Việt trong thời kỳ này du nhập thêm những từ ngữ Hán cổ như đầu, gan, ghế, ông, bà, cậu..., từ đó hình thành nên hệ thống Hán-Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Bằng cách này, tiếng Việt đã làm giàu thêm từ vựng của mình bằng cách thêm vào hàng loạt các yếu tố Hán Việt. Như là tâm, minh, đức, thiên, tự do... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như nhiệt náo thành náo nhiệt, thích phóng thành phóng thích.... Hoặc được rút gọn như thừa trần thành trần (trong trần nhà), lạc hoa sinh thành lạc (trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng)...; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như phương phi trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", bồi hồi trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động".... Đặc biệt, và giầu sáng tạo hơn, là các yếu tố Hán-Việt được sử dụng để tạo nên những từ ngữ đặc trưng chỉ có trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ sĩ diện, phi công (dùng 2 yếu tố Hán-Việt) hay bao gồm, sống động (một yếu tố Hán kết hợp với một yếu tố thuần Việt). Nói chung tỉ lệ vay mượn tiếng Hán trong tiếng Việt khá lớn (khoảng 25%) nhưng đại đa số những từ đó đều là những từ văn hoá (những từ thể hiện trình độ phát triển của xã hội) và về cơ bản, và chúng đã được Việt hóa cho phù hợp với các điều kiện xã hội, văn hóa tại Việt Nam. Do vậy tiếng Việt vừa giữ được bản sắc riêng của mình, vừa phát triển, tiến hóa và hoàn thiện dần theo nhu cầu và trình độ phát triển của xã hội.
Kể từ đầu thế kỷ thứ 11, Nho học phát triển, việc học văn tự chữ Nho được đẩy mạnh, tầng lớp trí thức được mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng chữ Nho cực kỳ phát triển với cái áng văn thư nổi tiếng như bài thơ thần của Lý Thường Kiệt bên sông Như Nguyệt (Sông Cầu). Cùng thời gian này, một hệ thống chữ viết được xây dựng riêng cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết được phát triển, và đó chính là chữ Nôm. Nhờ có chữ Nôm, văn học Việt Nam đã có những bước phát triển rực rỡ nhất, đạt đỉnh cao với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tiếng Việt, được thể hiện bằng chữ Nôm ở những thời kỳ sau này về cơ bản rất gần với tiếng Việt ngày nay. Tuy hầu hết mọi người Việt đều có thể nghe và hiểu văn bản bằng chữ Nôm, chỉ những người có học chữ Nôm mới có thể đọc và viết được chữ Nôm.
Chữ Nôm được chính thức dùng trong hành chính khi vua Quang Trung lên ngôi vào năm 1789
Thời kỳ thuộc địa Pháp
Kể từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ 19, tiếng Pháp dần dần thay thế vị trí của chữ Nho như là ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính, và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes tác giả cuốn từ điển Việt-Bồ-La và Ngữ pháp tiếng An Nam năm 1651, với mục đích dùng ký tự Latinh để biểu diễn tiếng Việt, ngày càng được phổ biến, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của văn hóa Tây phương (chủ yếu là từ ngôn ngữ – văn hóa Pháp) như phanh, lốp, găng, pê đan... và các từ Hán-Việt như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính... Tờ báo "Gia Định báo" là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam độc lập sau này.
Kể từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ 19, tiếng Pháp dần dần thay thế vị trí của chữ Nho như là ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính, và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes tác giả cuốn từ điển Việt-Bồ-La và Ngữ pháp tiếng An Nam năm 1651, với mục đích dùng ký tự Latinh để biểu diễn tiếng Việt, ngày càng được phổ biến, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của văn hóa Tây phương (chủ yếu là từ ngôn ngữ – văn hóa Pháp) như phanh, lốp, găng, pê đan... và các từ Hán-Việt như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính... Tờ báo "Gia Định báo" là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam độc lập sau này.
Bản Tuyên ngôn Độc lập được thảo bằng chữ Quốc ngữ do Hồ Chí Minh đọc đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam độc lập, đồng thời gián tiếp khẳng định vị trí của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam. Chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, chỉ sử dụng 27 ký tự Latinh và 6 dấu thanh, đơn giản, tiện lợi và có tính khoa học cao, dễ học, dễ nhớ, thông dụng; thay thế hoàn toàn tiếng Pháp và tiếng Hán vốn khó đọc, khó nhớ, không thông dụng.
Trong thời kỳ đất nước chia cách sau Hiệp định Genever, sự phát triển tiếng Việt giữa miền Bắc và miền Nam có chiều hướng khác nhau. Vì lý do chính trị và kinh tế, chính quyền miền Bắc có mối quan hệ sâu xa với Trung Quốc, và sự hiện diện của các chuyên viên nhân sự Trung Quốc đưa nhiều từ Bạch Thoại (ngôn ngữ nói của Trung Quốc) vào ngữ vựng tiếng Việt. Những từ này thường có gốc Hán Việt, nhưng thường đổi ngược thứ tự hay có nghĩa mới. Tại miền Nam, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ đã đem nhiều từ Anh ngữ vào ngữ vựng tiếng Việt.
Sau khi thống nhất, quan hệ bắc-nam được kết nối lại. Gần đây, sự phổ biến của các phương tiện truyền thanh và truyền hình toàn quốc đã làm tiếng Việt được chuẩn hóa một phần nào.
Phân bổ
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam, và cũng là ngôn ngữ phổ thông trong các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Thêm vào đó, tiếng Việt được sử dụng bởi hơn 1 triệu người tại Hoa Kỳ (đứng thứ 7 toàn quốc, thứ 3 tại Texas, thứ 4 tại Arkansas và Louisiana, và thứ 5 tại California), và trên 100.000 người tại Canada và Úc (đứng thứ 6 toàn quốc).
Theo Ethnologue [2], tiếng Việt còn được nhiều người sử dụng tại Anh, Ba Lan, Campuchia, Côte d'Ivoire, Đức, Hà Lan, Lào, Na Uy, Nouvelle-Calédonie, Phần Lan, Pháp, Philippines, Cộng hòa Séc, Sénégal, Thái Lan, Trung Quốc và Vanuatu. Tiếng Việt cũng còn được dùng bởi những người Việt sống tại Đài Loan, Nga, ...
Cách viết
Hiện nay, tiếng Việt dùng hệ chữ viết như ký tự Latinh gọi là Quốc ngữ. Theo tài liệu của những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lúc trước, chữ Quốc ngữ phát triển từ thế kỷ thứ 17, do công của một nhà truyền giáo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes (1591–1660). Sau cuộc xâm lăng của người Pháp giữa thế kỷ thứ 19, Quốc ngữ trở nên thịnh hành và hầu như tất cả các văn bản viết đều dùng Quốc ngữ. Trước đó, người Việt dùng hai loại chữ viết là chữ Nho (chữ Hán đọc theo cách Việt Nam – ngôn ngữ hành chính), và chữ Nôm (mô phỏng chữ Nho để viết chữ 'thuần Việt' – ngôn ngữ dân gian).Ngày nay, chữ Nho và chữ Nôm không còn thông dụng ở Việt Nam, chữ Nôm đã bị mai một nhiều
Cách phát âm
Trong tiếng Việt có sáu thanh: ngang (không dấu: a), huyền (nghiêng trái: à), sắc (nghiêng phải: á), hỏi (dấu hỏi: ả), ngã (dấu ngã: ã), và nặng (dấu chấm: ạ). Tất cả các dấu đều được đặt trên nguyên âm, riêng dấu nặng được đặt dưới nguyên âm.
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm, nhưng những từ ghép cũng có nhiều. Nguyên âm đôi và nguyên âm ba rất thông thường. Tiếng Việt có nhiều tiếng địa phương, trong đó có giọng Bắc (Hà Nội), giọng Trung (Huế), và giọng Nam (Sài Gòn) là ba phân loại chính. Những tiếng địa phương này khác nhau ở giọng điệu và từ địa phương. Thanh hỏi và thanh ngã ở miền Bắc rõ hơn ở miền Nam. Tiếng Huế khó hiểu hơn những tiếng khác vì có nhiều từ địa phương. Cách đọc tiêu chuẩn hiện nay được dựa vào giọng Hà Nội.
Chính tả
Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tham khảo rất nhiều qua những thảo luận về chính tả tiếng Việt, thậm chí đã quay ngược lại lịch sử từ năm 1902 khi Hội nghị Khảo cứu Viễn Đông được tổ chức tại đây, vấn đề về chữ Quốc Ngữ đã được Uỷ ban Cải cách Chữ Quốc Ngữ đề nghị lên chính phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều thảo luận được tổ chức nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt.
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam, và cũng là ngôn ngữ phổ thông trong các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Thêm vào đó, tiếng Việt được sử dụng bởi hơn 1 triệu người tại Hoa Kỳ (đứng thứ 7 toàn quốc, thứ 3 tại Texas, thứ 4 tại Arkansas và Louisiana, và thứ 5 tại California), và trên 100.000 người tại Canada và Úc (đứng thứ 6 toàn quốc).
Theo Ethnologue [2], tiếng Việt còn được nhiều người sử dụng tại Anh, Ba Lan, Campuchia, Côte d'Ivoire, Đức, Hà Lan, Lào, Na Uy, Nouvelle-Calédonie, Phần Lan, Pháp, Philippines, Cộng hòa Séc, Sénégal, Thái Lan, Trung Quốc và Vanuatu. Tiếng Việt cũng còn được dùng bởi những người Việt sống tại Đài Loan, Nga, ...
Cách viết
Hiện nay, tiếng Việt dùng hệ chữ viết như ký tự Latinh gọi là Quốc ngữ. Theo tài liệu của những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lúc trước, chữ Quốc ngữ phát triển từ thế kỷ thứ 17, do công của một nhà truyền giáo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes (1591–1660). Sau cuộc xâm lăng của người Pháp giữa thế kỷ thứ 19, Quốc ngữ trở nên thịnh hành và hầu như tất cả các văn bản viết đều dùng Quốc ngữ. Trước đó, người Việt dùng hai loại chữ viết là chữ Nho (chữ Hán đọc theo cách Việt Nam – ngôn ngữ hành chính), và chữ Nôm (mô phỏng chữ Nho để viết chữ 'thuần Việt' – ngôn ngữ dân gian).Ngày nay, chữ Nho và chữ Nôm không còn thông dụng ở Việt Nam, chữ Nôm đã bị mai một nhiều
Cách phát âm
Trong tiếng Việt có sáu thanh: ngang (không dấu: a), huyền (nghiêng trái: à), sắc (nghiêng phải: á), hỏi (dấu hỏi: ả), ngã (dấu ngã: ã), và nặng (dấu chấm: ạ). Tất cả các dấu đều được đặt trên nguyên âm, riêng dấu nặng được đặt dưới nguyên âm.
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm, nhưng những từ ghép cũng có nhiều. Nguyên âm đôi và nguyên âm ba rất thông thường. Tiếng Việt có nhiều tiếng địa phương, trong đó có giọng Bắc (Hà Nội), giọng Trung (Huế), và giọng Nam (Sài Gòn) là ba phân loại chính. Những tiếng địa phương này khác nhau ở giọng điệu và từ địa phương. Thanh hỏi và thanh ngã ở miền Bắc rõ hơn ở miền Nam. Tiếng Huế khó hiểu hơn những tiếng khác vì có nhiều từ địa phương. Cách đọc tiêu chuẩn hiện nay được dựa vào giọng Hà Nội.
Chính tả
Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tham khảo rất nhiều qua những thảo luận về chính tả tiếng Việt, thậm chí đã quay ngược lại lịch sử từ năm 1902 khi Hội nghị Khảo cứu Viễn Đông được tổ chức tại đây, vấn đề về chữ Quốc Ngữ đã được Uỷ ban Cải cách Chữ Quốc Ngữ đề nghị lên chính phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều thảo luận được tổ chức nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt.
Category: Ngôn ngữ
0 nhận xét