Tên gọi chính thức: Chăm
Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời.
Các nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Pôông. Chà Và Ku, Chàm Châu Đốc.
Số dân: 161.729 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói của người Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Người Chăm có chữ viết riêng, dựa trên hệ thống văn tự Sascrit.
Địa bàn cư trú: Cư trú chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và một số địa phương khác (Tây Ninh, An Giang, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh).
Nguồn gốc lịch sử: Người Chăm vốn ở duyên hải miền Trung từ rất lâu đời.
Đặc điểm kinh tế: Người Chăm có truyền thống trồng lúa nước và trồng cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nghề dệt vải, làm gốm cổ truyền nổi tiếng. Trao đổi sản phẩm, buôn bán phát triển.
Phong tục tập quán
Ăn: Đồng bào ăn cơm tẻ, thích uống rượu cần, ăn trầu.
Ở: Người Chăm Ở nhà sàn thấp và nhà trệt trong một quần thể kiến trúc trên một diện tích. Nhà cửa đơn sơ, làng mạc kín đáo. Gia đình người Chăm vẫn theo chế độ mẫu hệ.
Phương tiện vận chuyển: Người Chăm thường sử dụng các xe thô sơ dựa vào sức kéo của súc vật. Trên biển đã từng có những đội thuyền chiến và đội th ương thuyền nổi tiếng trong lịch sử.
Hôn nhân : Nhà gái cười chồng cho con, Sau khi cười, con trai ở rể.
Tang ma: Người Chăm có tục thổ táng và hỏa táng tùy theo tôn giáo.
Lễ hội: thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm (lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. .). Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch).
Tín ngưỡng: Người Chăm theo hai tôn giáo chính: đạo Bà la môn ( khu vực Ninh Thuận và Bình Thuận). Một số theo Hồi giáo Bà ni hoặc Hồi giáo lslam.
Trang phục: Đàn ông quấn xà rông, áo cánh ngắn cài khuy phía trước, áo xẻ ngực. Đàn bà quấn váy tấm, mặc áo dài chui đầu có thắt lưng và thường có dải khăn quàng chéo trước ngực.
Đời sống văn hóa: Nền văn học cổ Chăm rất phóng phú và đặc sắc với các bia kí, kinh thánh, huyền thoại. sử thi anh hùng, truyện cổ. Kiến trúc tháp, thánh đường là kiến trúc độc đáo và tiêu biểu. Nhạc cổ truyền có kèn saranai, trống paranưng, trống kinăng, đàn nhị và những bộ chiêng đồng.
Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời.
Các nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Pôông. Chà Và Ku, Chàm Châu Đốc.
Số dân: 161.729 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói của người Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Người Chăm có chữ viết riêng, dựa trên hệ thống văn tự Sascrit.
Địa bàn cư trú: Cư trú chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và một số địa phương khác (Tây Ninh, An Giang, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh).
Nguồn gốc lịch sử: Người Chăm vốn ở duyên hải miền Trung từ rất lâu đời.
Đặc điểm kinh tế: Người Chăm có truyền thống trồng lúa nước và trồng cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nghề dệt vải, làm gốm cổ truyền nổi tiếng. Trao đổi sản phẩm, buôn bán phát triển.
Phong tục tập quán
Ăn: Đồng bào ăn cơm tẻ, thích uống rượu cần, ăn trầu.
Ở: Người Chăm Ở nhà sàn thấp và nhà trệt trong một quần thể kiến trúc trên một diện tích. Nhà cửa đơn sơ, làng mạc kín đáo. Gia đình người Chăm vẫn theo chế độ mẫu hệ.
Phương tiện vận chuyển: Người Chăm thường sử dụng các xe thô sơ dựa vào sức kéo của súc vật. Trên biển đã từng có những đội thuyền chiến và đội th ương thuyền nổi tiếng trong lịch sử.
Hôn nhân : Nhà gái cười chồng cho con, Sau khi cười, con trai ở rể.
Tang ma: Người Chăm có tục thổ táng và hỏa táng tùy theo tôn giáo.
Lễ hội: thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm (lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. .). Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch).
Tín ngưỡng: Người Chăm theo hai tôn giáo chính: đạo Bà la môn ( khu vực Ninh Thuận và Bình Thuận). Một số theo Hồi giáo Bà ni hoặc Hồi giáo lslam.
Trang phục: Đàn ông quấn xà rông, áo cánh ngắn cài khuy phía trước, áo xẻ ngực. Đàn bà quấn váy tấm, mặc áo dài chui đầu có thắt lưng và thường có dải khăn quàng chéo trước ngực.
Đời sống văn hóa: Nền văn học cổ Chăm rất phóng phú và đặc sắc với các bia kí, kinh thánh, huyền thoại. sử thi anh hùng, truyện cổ. Kiến trúc tháp, thánh đường là kiến trúc độc đáo và tiêu biểu. Nhạc cổ truyền có kèn saranai, trống paranưng, trống kinăng, đàn nhị và những bộ chiêng đồng.
Tên tự gọi: Ba-na.
Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...
Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.
Dân số: 227.716 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Người Ba - na chưa có chữ viết riêng.
Nguồn gốc lịch sử: Dân tộc Ba-na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên.
Địa bàn cư trú: Cư trú tập trung tại tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú Yên và Khánh Hòa.
Đặc điểm kinh tế: Canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Việc làm ruộng nước ngày càng phát triển. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn đảm bảo nhu cầu cuộc sống.
Phong tục tập quán
Ăn: Người Ba-na ăn cơm tẻ. Nam, nữ đều thích ăn trầu, hút thuốc lá cuốn và uống rượu cần.
Ở: Ở nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng. Nhà Rông dựng lên giữa làng là nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng.
Hôn nhân: Từ xưa, hôn nhân một vợ, một chồng là nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng gia đình. Hình thức luân cư sau lễ cưới rất phổ biến. Kết thúc các chu kỳ luân cư (ở bên vợ rồi ở bên chồng), đôi vợ chồng ra ở riêng.
Tang ma: Khi có người chết thì thổ táng, lúc đoạn tang thì làm lễ bỏ mả, dựng nhà mồ và tượng mồ.
Lễ hội: Nhiều lễ hội gắn với chu kỳ sản xuất và vòng đời.
Tín ngưỡng: Người Ba-na thờ nhiều thần. Họ có nhiều nghi lễ liên quan đến nông nghiệp. Hồn lúa được coi trọng. Một bộ phận theo đạo Công giáo và Tin lành.
Trang phục: Nam đóng khố, nữ quấn váy, nửa thân trên để trần hoặc mặc áo cánh ngắn chui đầu. Ngày lạnh, người Ba-na thường khoác thêm một tấm vải choàng qua đầu
Đời sống văn hóa: Người Ba - na có kho tàng dân ca phong phú, phổ biến là điệu hmon và roi. Nhạc cụ cũng rất đa dạng, độc đáo (bộ dây, bộ hơi và bộ gõ...). Trường ca, Truyện cổ của dân tộc Ba - na cũng là những tác phẩm dân gian cổ truyền độc đáo, có giá trị trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...
Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.
Dân số: 227.716 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Người Ba - na chưa có chữ viết riêng.
Nguồn gốc lịch sử: Dân tộc Ba-na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên.
Địa bàn cư trú: Cư trú tập trung tại tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú Yên và Khánh Hòa.
Đặc điểm kinh tế: Canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Việc làm ruộng nước ngày càng phát triển. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn đảm bảo nhu cầu cuộc sống.
Phong tục tập quán
Ăn: Người Ba-na ăn cơm tẻ. Nam, nữ đều thích ăn trầu, hút thuốc lá cuốn và uống rượu cần.
Ở: Ở nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng. Nhà Rông dựng lên giữa làng là nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng.
Hôn nhân: Từ xưa, hôn nhân một vợ, một chồng là nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng gia đình. Hình thức luân cư sau lễ cưới rất phổ biến. Kết thúc các chu kỳ luân cư (ở bên vợ rồi ở bên chồng), đôi vợ chồng ra ở riêng.
Tang ma: Khi có người chết thì thổ táng, lúc đoạn tang thì làm lễ bỏ mả, dựng nhà mồ và tượng mồ.
Lễ hội: Nhiều lễ hội gắn với chu kỳ sản xuất và vòng đời.
Tín ngưỡng: Người Ba-na thờ nhiều thần. Họ có nhiều nghi lễ liên quan đến nông nghiệp. Hồn lúa được coi trọng. Một bộ phận theo đạo Công giáo và Tin lành.
Trang phục: Nam đóng khố, nữ quấn váy, nửa thân trên để trần hoặc mặc áo cánh ngắn chui đầu. Ngày lạnh, người Ba-na thường khoác thêm một tấm vải choàng qua đầu
Đời sống văn hóa: Người Ba - na có kho tàng dân ca phong phú, phổ biến là điệu hmon và roi. Nhạc cụ cũng rất đa dạng, độc đáo (bộ dây, bộ hơi và bộ gõ...). Trường ca, Truyện cổ của dân tộc Ba - na cũng là những tác phẩm dân gian cổ truyền độc đáo, có giá trị trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
STT
|
Tên gọi
|
Tên gọi khác
|
Các nhóm nhỏ
|
Địa bàn cư trú
|
1
|
Kinh
|
Việt
|
Trong cả nước
|
|
2
|
Tày
|
Thổ
|
Ngạn, Phán, Thu lao, Pa dí | Hà giang, Tuyên Quang, Lào cai, Yên Bái, Cao Bằng, Lai Châu, Bắc Thái, Hà Bắc. |
3
|
Thái
|
Táy
|
Táy Khao(Thái Trắng), Táy Đăm (Thái Đen), Táy Chiềng hay Táy Mương(Hàng Tổng), Táy Thanh(Man Thanh), Táy Mười, Pu Thay, Thổ Đà Bắc, Táy Mộc Châu(Táy Đeng) | Sơn La, Lai Châu, Nghệ An, Thanh Hoá, Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Lâm Đồng... |
4
|
Mường
|
Mol, Mual, Mọi
|
Mọi Bi, Ao Tá (ÂuTá) | Hoà Bình, Thanh Hoá, Vĩnh Phú, Yên Bái, Sơn La, Ninh Bình |
5
|
Hoa
|
Khách, Tàu, Hán
|
Triền Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Xạ Phang, Thoòng Nhằn, Hẹ | Kiên Giang, Hải Phòng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Quảng Ninh,Đồng Nai, Hậu Giang, Minh Hải, tp Hồ Chí Minh |
6
|
Khơ-me
|
Miên, Cur, Cul, Thổ, Việt gốc Khơ-me, Khơ-me Krôm | Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên Giang, Minh Hải, Tây Ninh, tp Hồ Chí Minh, Sông Bé, An Giang | |
7
|
Nùng
|
Nùng Xuồng, Nùng Giang, Nùng An, Nùng Phàn Sình, Nùng Lòi, Nùng Tùng Slìn, Nùng Cháo, Nùng Quý Rỵn, Nùng Khèn Lài, Nùng Dín, Nùng Inh... | Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Hà Giang, Tuyên Quang, Hà Bắc, Quảng Ninh, tp. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Lào Cai | |
8
|
Hơmông
|
Mèo, Mẹo, Mán, Miêu Tộc
|
Mèo Hoa, Mèo Xanh, Mèo Đỏ, Mèo Đen, Ná Miẻo, Mèo Trắng | Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An, Thanh Hóa, Hoà Bình, Bắc Thái |
9
|
Dao
|
Mán, Động, Trại, Dìu, Miền,
Kiềm, Kìm Mùn
|
Dao Đại Bản, Dao Đỏ, Dao Cóc Ngáng, Dao Cóc Mùn, Dao Lô Gang, Dao Quần Chẹt, Dao Tam Đảo, Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Làn Tiẻn, Dao áo Dài | Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Phú, Hà Bắc, Thanh Hoá, Quảng Ninh, Hoà Bình, Hà Tây |
10
|
Gia-rai
|
Mọi, Chơ-rai
|
Chỏ, Hđrung, Aráp, Mdhur, Tbuăn | Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc |
11
|
Ê-đê
|
Đe, Mọi
|
Ra-đê, Rha-đê, Êđê-Êga, Anăk Êđê, Kpă, Ađham, Krung, Ktul Dliê, Ruê, Blô, Êpan, Mđhur, Bih, Kđrao, Dong Kay, Dong Măk, Êning, Arul, Hning, Kmun,Ktlê | Đắc Lắc, Phú Yên, Khánh Hoà |
12
|
Ba-na
|
Bơ-nâm, Roh, Kon Kde, Ala Công,
Kpang Công
|
Tơ-lô, Gơ-lar, Rơ-ngao, Krem, Giơ-lơng(Y-lơng) | Kon Tum, Bình Định, Phú Yên |
13
|
Sán Cháy
|
Mán, Cao Lan-Sán Chỉ, Hờn Bạn,
Hờn Chùng, Sơn Tử
|
Cao Lan, Sán Chỉ | Bắc Thái, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Hà Bắc, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Yên Bái |
14
|
Chăm
|
Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời, Chàm
|
Chăm Hroi, Chàm Châu Đốc, Chà Và Ku, Chăm Pôông | Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, tp. Hồ Chí Minh, Bình Định, Phú Yên, Châu Đốc, Khánh Hoà |
15
|
Xơ-đăng
|
Kmrâng, Hđang, Con-lan, Brila
|
Xơ-teng,Tơ-đrá, Mơ-nâm, Hà-lăng, Ca-dong, Châu, Ta Trẽ(Tà Trĩ) | Kon Tum, Quảng Nam-Đà Nẵng, Quảng Ngãi |
16
|
Sán Diù
|
Trại, Trại Đát, Sán Dợo, Mán
quần Cộc, Mán Váy Xẻ
|
Quảng Ninh, Hà Bắc, Hải Hưng, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Tuyên Quang | |
17
|
Hrê
|
Mọi Đá Vách, Chăm-rê, Mọi Luỹ,
Thạch Bých, Mọi Sơn Phòng
|
Quảng Ngãi, Bình Định | |
18
|
Cơ-ho
|
Xrê, Nốp (Tu Nốp), Cơ-don, Chil, Lát (Lách), Tơ-ring | Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hoà | |
19
|
Ra-glay
|
O-rang, Glai, Rô-glai, Radlai,
Mọi
|
Ra-clay (Rai), Noong (La-oang) | Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hoà, Lâm Đồng |
20
|
Mnông
|
Gar, Chil, Rlâm, Preh, Kuênh, Nông, Bu-Đâng, Prâng, Đip, Biêt, Si Tô, Bu Đêh | Đắc Lăc, Lâm Đồng | |
21
|
Thổ
|
Kủo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai-Ly Hà, Tày Poọng (Con Kha, Xá La Vàng) | Nghệ An, Thanh Hoá | |
22
|
X'tiêng
|
Xa-điêng, Mọi, Tà-mun
|
Sông Bé, Tây Ninh, Lâm Đồng, Đắc Lắc | |
23
|
Khơmú
|
Xá Cốu, Pu Thênh, Tày Hạy, Việt
Cang, Khá Klậu, Tềnh
|
Quảng Lâm | Sơn La, Lai Châu, Nghệ An, Yên Bái |
24
|
Bru-Vân Kiều
|
Vân Kiều, Măng Coong, Trì, Khùa, Bru | Quảng Bình, Quảng Trị | |
25
|
Giáy
|
Nhắng, Giẳng, Sa Nhân, Pầu Thỉn,
Chủng Chá, Pu Nắm
|
Pu Nà (Cùi Chu hoặc Quý Châu) | Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu |
26
|
Cơ-tu
|
Ca-tu, Ca-tang, Mọi, Cao, Hạ
|
Phương, Kan-tua | Quảng Nam-Đà Nẵng, Thừa Thiên-Huế |
27
|
Gié-Triêng
|
Giang Rẫy, Brila, Cà-tang, Mọi,
Doãn
|
Gié (Dgieh, Tareh), Triêng (Treng, Tơ-riêng), Ve (La-ve), Pa-noong (Bơ Noong) | Quảng Nam-Đà Nẵng, Kon Tum |
28
|
Ta-ôi
|
Tôi-ôi, Ta-hoi, Ta-ôih, Tà-uất
(Atuất)
|
Pa-cô, Ba-hi, Can-tua | Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế |
29
|
Mạ
|
Châu Mạ, Chô Mạ, Mọi | Lâm Đồng, Đồng Nai | |
30
|
Co
|
Trầu, Cùa, Mọi, Col, Cor, Khùa
|
Quảng Ngãi, Quảng Nam-Đà Nẵng | |
31
|
Chơ-ro
|
Châu-ro, Dơ-ro, Mọi
|
Đồng Nai | |
32
|
Hà Nhì
|
U Ní, Xá U Ní, Hà Nhì Già
|
Hà Nhì Cồ Chồ, Hà Nhì La Mí, Hà Nhì Đen | Lai Châu, Lào Cai |
33
|
Xinh-mun
|
Puộc, Pụa, Xá
|
Dạ, Nghẹt | Sơn La, Lai Châu |
34
|
Chu-ru
|
Chơ-ru, Kru, Mọi
|
Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận | |
35
|
Lào
|
Lào Bốc, Lào Nọi
|
Lai Châu, Sơn La | |
36
|
La-chí
|
Thổ Đen, Cù Tê, Xá, La ti, Mán
Chí
|
Hà Giang | |
37
|
Phù Lá
|
Bồ Khô Pạ (Xá Phó), Mun Di Pạ, Phù Lá Đen, Phù Lá Hoa, Phù Lá Trắng, Phù Lá Hán, Chù Lá Phù Lá | Lao Cai, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang | |
38
|
La Hủ
|
Khù Sung (Cò Sung), Khạ Quy (Xá Quỷ), Xá Toong Lương (Xá Lá Vàng), Xá Pươi | Lai Châu | |
39
|
Kháng
|
Xá Khao, Xá Đón, Xá Tú Lăng
|
Kháng Xúa, Kháng Đón, Kháng Dống, Kháng Hốc, Kháng ái, Kháng Bung, Kháng Quảng Lâm | Lai Châu, Sơn La |
40
|
Lự
|
Lừ, Duôn, Nhuồn
|
Lai Châu | |
41
|
Pà Thẻn
|
Pà Hưng, Mán Pa Teng, Tống
|
Tống, Mèo Lài | Hà Giang, Tuyên Quang |
42
|
LôLô
|
Mùn Di, Ô Man, Lu Lọc Màn, Di,
Qua La, La La, Ma Di
|
Lô Lô Đen, Lô Lô Hoa | Hà Giang, Cao Bằng, Lao Cai |
43
|
Chứt
|
Xá La Vàng, Chà Củi (Tắc Củi),
Tu Vang, Pa Leng
|
Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, Arem, Xơ-lang, Umo | Quảng Bình |
44
|
Mảng
|
Mảng Ư, Xá Lá Vàng, Niễng O, Xa
Mãng, Xá Cang Lai
|
Mảng Hệ, Mảng Gứng | Lai Châu |
45
|
Cờ lao
|
Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Đỏ | Hà Giang | |
46
|
Bố Y
|
Chủng Chá, Trung Gia, Pầu Y, Pủ
Dí
|
Bố Y, Tu Dí | Hà Giang, Lào Cai |
47
|
La Ha
|
Xá Khao, Xá Cha, Xá La Nga
|
Khlá Phlạo, La Ha ủng | Yên Bái, Sơn La |
48
|
Cống
|
Xám Khôống, Xá Xeng, Xa, Xá Côống | Lai Châu | |
49
|
Ngái
|
Sán Ngái
|
Xín, Lê, Đản, Khánh Gia, Hắc Cá (Xéc) | Quảng Ninh, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng |
50
|
Si La
|
Cú Đề Xừ
|
Lai Châu | |
51
|
Pu Piéo
|
Ka Bẻo, Pen Ti Lô Lô, La Quả,
Mán
|
Hà Giang | |
52
|
Brâu
|
Brao
|
Kon Tum | |
53
|
Rơ-măm
|
Kon Tum | ||
54
|
Ơ-đu
|
Tày Hạt
|
Nghệ An |
1. Âm tiết
Chuỗi lời nói mà con người phát ra gồm nhiều khúc đoạn dài ngắn khác nhau. Đơn vị phát âm ngắn nhất là âm tiết (syllable).
Về phương diện phát âm, âm tiết có tính chất toàn vẹn, không thể phân chia được là bởi nó được phát âm bằng một đợt căng của cơ thịt của bộ máy phát âm.
Khi phát âm một âm tiết, các cơ thịt của bộ máy phát âm đều phải trải qua ba giai đoạn: tăng cường độ căng, đỉnh điểm căng thẳng và giảm độ căng.
Dựa vào cách kết thúc, các âm tiết được chia thành hai loại lớn: mở và khép. Trong mỗi loại lại có hai loại nhỏ hơn. Như vậy có 4 loại âm tiết như sau:
- những âm tiết dược kết thúc bằng một phụ âm vang (/m, n, ŋ/...) được gọi là những âm tiết nửa khép.
- những âm tiết được kết thúc bằng một phụ âm không vang (/p, t, k/) được gọi là những âm tiết khép.
- những âm tiết được kết thúc bằng một bán nguyên âm (/w, j/) được gọi là những âm tiết nửa mở.
- những âm tiết được kết thúc bằng cách giữ nguyên âm sắc của nguyên âm ở đỉnh âm tiết thì được gọi là âm tiết mở.
2. Đặc điểm âm tiết tiếng Việt
2.1. Có tính độc lập cao:
+ Trong dòng lời nói, âm tiết tiếng Việt bao giờ cũng thể hiện khá đầy đủ, rõ ràng, được tách và ngắt ra thành từng khúc đoạn riêng biệt.
+ Khác với âm tiết các ngôn ngữ châu Âu, âm tiết nào của tiếng Việt cũng mang một thanh điệu nhất định.
+ Do được thể hiện rõ ràng như vậy nên việc vạch ranh giới âm tiết tiếng Việt trở nên rất dễ dàng.
2.2. Có khả năng biểu hiện ý nghĩa
+ Ở tiếng Việt, tuyệt đại đa số các âm tiết đều có ý nghĩa. Hay, ở tiếng Việt, gần như toàn bộ các âm tiết đều hoạt động như từ...
+ Có thể nói, trong tiến Việt, âm tiết không chỉ là một đơn vị ngữ âm đơn thuần mà còn là một đơn vị từ vựng và ngữ pháp chủ yếu. Ở đây, mối quan hệ giữa âm và nghĩa trong âm tiết cũng chặt chẽ và thường xuyên như trong từ của các ngôn ngữ Âu châu, và đó chính là một nét đặctrưng loại hình chủ đạo của tiếng Việt.
2. 3. Có một cấu trúc chặt chẽ
Mô hình âm tiết tiếng Việt không phải là một khối không thể chia cắt mà là một cấu trúc. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc hai bậc, ở dạng đầy đủ nhất gồm 5 thành tố, mỗi thành tố có một chức năng riêng.
3. Mô hình âm tiết tiếng Việt và các thành tố của nó
3.1. Thanh điệu
THANH ĐIỆU
ÂM ĐẦU VẦN
Âm đệm Âm chính Âm cuối
Có tác dụng khu biệt âm tiết về cao độ. Mỗi âm tiết có một trong 6 thanh điệu.
Vd: toán – toàn
3.2. Âm đầu
Có những cách mở đầu âm tiết khác nhau (tắc, xát, rung), chúng có tác dụng khu biệt các âm tiết. Vd: toán – hoán
3.3. Âm đệm
Có tác dụng biến đổi âm sắc của âm tiết sau lúc mở đầu, nó có chức năng khi biệt các âm tiết. Vd: toán – tán
3.4. Âm chính
Mang âm sắc chủ đạo của âm tiết và là hạt nhân của âm tiết. Vd: túy – túi
3.5. Âm cuối
Có chức năng kết thúc âm tiết với nhiều cách khác nhau (tắc, không tắc...) làm thay đổi âm sắc của âm tiết và do đó để phân biệt âm tiết này với âm tiết khác. Vd: bàn – bài
5 thành tố trên ở âm tiết nào cũng có, đó là 5 thành phần của âm tiết, mỗi thành phần làm thành một trục đối lập (các âm tiết đối lập nhau theo từng trục, hay còn gọi là đối hệ).
Trong mỗi trục đối lập có nhiều vế đối lập nhau, mỗi vế là một âm vị.
Trong trường hợp “toán” và “tán” ta cũng có sự đối lập ở trục âm đệm, ở đây có 2 vế, một vế được gọi là vế có, một vế được gọi là vế không (zero). Vì vậy ta có hai âm vị làm chức năng âm đệm: vế không được gọi là âm đệm zero; vế có là âm vị /w/.
Các bậc trong sự phân định thành tố âm tiết
Những đường ranh giới đi qua thanh điệu và âm đầu khác nhau về số lượng và cũng khác về chất lượng so với những đường ranh giới phân chia trong bộ phận còn lại của âm tiết. Đường ranh giới đi qua âm đầu và phần còn lại còn có thể nói là một đường ranh giới bán hình thái học (xét trong trường hợp nếu coi [iek] như một hình vị. Trong âm tiết, âm đầu luôn giữ một trường độ riêng, còn các bộ phận nằm trong phần còn lại thì có quan hệ nhân nhượng, nếu nguyên âm dài thì phụ âm cuối ngắn, nếu nguyên âm ngắn thì phụ âm cuối dài, cũng để đảm bảo cho tính cố định cho trường độ âm tiết.
Như vậy, tỏ ra rằng tính độc lập của âm đầu rất cao, còn các yếu tố làm nên bộ phận phía sau thì tính độc lập thấp, thậm chí không có cho mình một kích thước riêng.
Trong khi nghiên cứu về thanh điệu, Gordina thấy rằng đường cong biểu diễn âm điệu của thanh điệu đi qua các vần [an], [aŋ], và các vần [aw], [aj] đều như nhau. Như vậy, có nghĩa là thanh điệu độc lập với các thành phần chiết đoạn.
Vì vậy, tất cả những điều đã trình bày ở trên cho thấy âm tiết tiếng Việt có một cấu trúc 2 bậc:
Chuỗi lời nói mà con người phát ra gồm nhiều khúc đoạn dài ngắn khác nhau. Đơn vị phát âm ngắn nhất là âm tiết (syllable).
Về phương diện phát âm, âm tiết có tính chất toàn vẹn, không thể phân chia được là bởi nó được phát âm bằng một đợt căng của cơ thịt của bộ máy phát âm.
Khi phát âm một âm tiết, các cơ thịt của bộ máy phát âm đều phải trải qua ba giai đoạn: tăng cường độ căng, đỉnh điểm căng thẳng và giảm độ căng.
Dựa vào cách kết thúc, các âm tiết được chia thành hai loại lớn: mở và khép. Trong mỗi loại lại có hai loại nhỏ hơn. Như vậy có 4 loại âm tiết như sau:
- những âm tiết dược kết thúc bằng một phụ âm vang (/m, n, ŋ/...) được gọi là những âm tiết nửa khép.
- những âm tiết được kết thúc bằng một phụ âm không vang (/p, t, k/) được gọi là những âm tiết khép.
- những âm tiết được kết thúc bằng một bán nguyên âm (/w, j/) được gọi là những âm tiết nửa mở.
- những âm tiết được kết thúc bằng cách giữ nguyên âm sắc của nguyên âm ở đỉnh âm tiết thì được gọi là âm tiết mở.
2. Đặc điểm âm tiết tiếng Việt
2.1. Có tính độc lập cao:
+ Trong dòng lời nói, âm tiết tiếng Việt bao giờ cũng thể hiện khá đầy đủ, rõ ràng, được tách và ngắt ra thành từng khúc đoạn riêng biệt.
+ Khác với âm tiết các ngôn ngữ châu Âu, âm tiết nào của tiếng Việt cũng mang một thanh điệu nhất định.
+ Do được thể hiện rõ ràng như vậy nên việc vạch ranh giới âm tiết tiếng Việt trở nên rất dễ dàng.
2.2. Có khả năng biểu hiện ý nghĩa
+ Ở tiếng Việt, tuyệt đại đa số các âm tiết đều có ý nghĩa. Hay, ở tiếng Việt, gần như toàn bộ các âm tiết đều hoạt động như từ...
+ Có thể nói, trong tiến Việt, âm tiết không chỉ là một đơn vị ngữ âm đơn thuần mà còn là một đơn vị từ vựng và ngữ pháp chủ yếu. Ở đây, mối quan hệ giữa âm và nghĩa trong âm tiết cũng chặt chẽ và thường xuyên như trong từ của các ngôn ngữ Âu châu, và đó chính là một nét đặctrưng loại hình chủ đạo của tiếng Việt.
2. 3. Có một cấu trúc chặt chẽ
Mô hình âm tiết tiếng Việt không phải là một khối không thể chia cắt mà là một cấu trúc. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc hai bậc, ở dạng đầy đủ nhất gồm 5 thành tố, mỗi thành tố có một chức năng riêng.
3. Mô hình âm tiết tiếng Việt và các thành tố của nó
3.1. Thanh điệu
THANH ĐIỆU
ÂM ĐẦU VẦN
Âm đệm Âm chính Âm cuối
Có tác dụng khu biệt âm tiết về cao độ. Mỗi âm tiết có một trong 6 thanh điệu.
Vd: toán – toàn
3.2. Âm đầu
Có những cách mở đầu âm tiết khác nhau (tắc, xát, rung), chúng có tác dụng khu biệt các âm tiết. Vd: toán – hoán
3.3. Âm đệm
Có tác dụng biến đổi âm sắc của âm tiết sau lúc mở đầu, nó có chức năng khi biệt các âm tiết. Vd: toán – tán
3.4. Âm chính
Mang âm sắc chủ đạo của âm tiết và là hạt nhân của âm tiết. Vd: túy – túi
3.5. Âm cuối
Có chức năng kết thúc âm tiết với nhiều cách khác nhau (tắc, không tắc...) làm thay đổi âm sắc của âm tiết và do đó để phân biệt âm tiết này với âm tiết khác. Vd: bàn – bài
5 thành tố trên ở âm tiết nào cũng có, đó là 5 thành phần của âm tiết, mỗi thành phần làm thành một trục đối lập (các âm tiết đối lập nhau theo từng trục, hay còn gọi là đối hệ).
Trong mỗi trục đối lập có nhiều vế đối lập nhau, mỗi vế là một âm vị.
Trong trường hợp “toán” và “tán” ta cũng có sự đối lập ở trục âm đệm, ở đây có 2 vế, một vế được gọi là vế có, một vế được gọi là vế không (zero). Vì vậy ta có hai âm vị làm chức năng âm đệm: vế không được gọi là âm đệm zero; vế có là âm vị /w/.
Các bậc trong sự phân định thành tố âm tiết
Những đường ranh giới đi qua thanh điệu và âm đầu khác nhau về số lượng và cũng khác về chất lượng so với những đường ranh giới phân chia trong bộ phận còn lại của âm tiết. Đường ranh giới đi qua âm đầu và phần còn lại còn có thể nói là một đường ranh giới bán hình thái học (xét trong trường hợp nếu coi [iek] như một hình vị. Trong âm tiết, âm đầu luôn giữ một trường độ riêng, còn các bộ phận nằm trong phần còn lại thì có quan hệ nhân nhượng, nếu nguyên âm dài thì phụ âm cuối ngắn, nếu nguyên âm ngắn thì phụ âm cuối dài, cũng để đảm bảo cho tính cố định cho trường độ âm tiết.
Như vậy, tỏ ra rằng tính độc lập của âm đầu rất cao, còn các yếu tố làm nên bộ phận phía sau thì tính độc lập thấp, thậm chí không có cho mình một kích thước riêng.
Trong khi nghiên cứu về thanh điệu, Gordina thấy rằng đường cong biểu diễn âm điệu của thanh điệu đi qua các vần [an], [aŋ], và các vần [aw], [aj] đều như nhau. Như vậy, có nghĩa là thanh điệu độc lập với các thành phần chiết đoạn.
Vì vậy, tất cả những điều đã trình bày ở trên cho thấy âm tiết tiếng Việt có một cấu trúc 2 bậc:
Các định nghĩa
Các định nghĩa sau quan trọng cho việc xây dựng các quy tắc chính tả:
Âm tiết
Âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất trong ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, một âm tiết bao giờ cũng được phát ra với một thanh điệu, và tách rời với âm tiết khác bằng một khoảng trống. Trên chữ viết, mỗi âm tiết tiếng Việt được ghi thành một "chữ". Ví dụ: hoa hồng bạch gồm 3 chữ, hoặc 3 âm tiết.
Nguyên âm
Các nguyên âm là a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, và y. Ngoài ra, các nguyên âm có dấu phụ là ă, â, ê, ô, ơ, và ư.
Bán nguyên âm
Chỉ có 3 trường hợp của oa, oe, uy thì có o và u là bán nguyên âm, đóng vai trò đệm cho nguyên âm. Có nghĩa là o và u không được xem là nguyên âm trong tổ hợp 3 âm tiết trên.
Phụ âm
Các phụ âm là b, c, d, đ, (f), g, h, (j), k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, (w), x, và (z). Các chữ f, j, w, và z không thuộc về chữ cái tiếng Việt, nhưng được sử dụng trong nhiều từ mượn.
Tổ hợp phụ âm
Các phụ âm ghép chuẩn là ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr, gi, và qu. Đôi khi có người cũng viết dz thay vì d vào đầu chữ. Ngày nay, các tổ hợp phụ âm không được nhìn là chữ riêng khi sắp xếp theo chữ cái, cho nên những từ điển mới bỏ ch ở giữa ca và co, nhưng một số từ điển cũ, như là Từ-Điển Thông-Dụng Anh-Việt Việt-Anh của Nguyễn Văn Khôn năm 1987, bỏ ch đằng sau co.
Chú ý: gi và qu là tổ hợp bán phụ âm. Tại đây, i và u không là nguyên âm, mà chỉ là một bộ phận của phụ âm bất khả phân li
Các định nghĩa sau quan trọng cho việc xây dựng các quy tắc chính tả:
Âm tiết
Âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất trong ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, một âm tiết bao giờ cũng được phát ra với một thanh điệu, và tách rời với âm tiết khác bằng một khoảng trống. Trên chữ viết, mỗi âm tiết tiếng Việt được ghi thành một "chữ". Ví dụ: hoa hồng bạch gồm 3 chữ, hoặc 3 âm tiết.
Nguyên âm
Các nguyên âm là a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, và y. Ngoài ra, các nguyên âm có dấu phụ là ă, â, ê, ô, ơ, và ư.
Bán nguyên âm
Chỉ có 3 trường hợp của oa, oe, uy thì có o và u là bán nguyên âm, đóng vai trò đệm cho nguyên âm. Có nghĩa là o và u không được xem là nguyên âm trong tổ hợp 3 âm tiết trên.
Phụ âm
Các phụ âm là b, c, d, đ, (f), g, h, (j), k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, (w), x, và (z). Các chữ f, j, w, và z không thuộc về chữ cái tiếng Việt, nhưng được sử dụng trong nhiều từ mượn.
Tổ hợp phụ âm
Các phụ âm ghép chuẩn là ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr, gi, và qu. Đôi khi có người cũng viết dz thay vì d vào đầu chữ. Ngày nay, các tổ hợp phụ âm không được nhìn là chữ riêng khi sắp xếp theo chữ cái, cho nên những từ điển mới bỏ ch ở giữa ca và co, nhưng một số từ điển cũ, như là Từ-Điển Thông-Dụng Anh-Việt Việt-Anh của Nguyễn Văn Khôn năm 1987, bỏ ch đằng sau co.
Chú ý: gi và qu là tổ hợp bán phụ âm. Tại đây, i và u không là nguyên âm, mà chỉ là một bộ phận của phụ âm bất khả phân li
Đặt dấu thanh
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc vị trí đặt dấu thanh, quan điểm tương đối hợp lí hiện nay như sau:
Với các âm tiết [-tròn môi] (âm đệm /zero/) có âm chính là nguyên âm đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của chữ cái biểu diễn cho âm chính đó. Ví dụ: á, tã, nhà, nhãn, gánh, ngáng...
Với các âm tiết [+tròn môi] (âm đệm /w/, được biểu diễn bằng "o, u") có âm chính là nguyên âm đơn thì cũng bỏ dấu thanh điệu vào vị trí chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: hoà, hoè, quỳ, quà, quờ, thuỷ, nguỵ, hoàn, quét, quát, quỵt, suýt...
Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi:
Nếu là âm tiết [-khép] (nguyên âm được viết là: "iê, yê, uô, ươ"; âm cuối được viết bằng: "p, t, c, ch, m, n, ng, nh, o, u, i") thì bỏ dấu lên chữ cái thứ hai trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: yếu, uốn, ườn, tiến, chuyến, muốn, mượn, thiện, thuộm, người, viếng, muống, cường...
Nếu là âm tiết [+khép] (nguyên âm được viết là: "ia, ya, ua, ưa") thì nhất loạt bỏ dấu vào vị trí chữ cái thứ nhất trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: ỉa, tủa, cứa, thùa, khứa...
Phân biệt vị trí đặt dấu thanh điệu ở tổ hợp "ua" và "ia":
Với "ia" thì thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "g" ở đầu âm tiết. Có "g" thì đặt vào "a" (già, giá, giả...), không có "g" thì đặt vào "i" (bịa, chìa, tía...). Trường hợp đặc biệt: "gịa" (có trong từ "giặt gịa" và đọc là zịa).
Với "ua" thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "q". Có "q" thì đặt vào "a" (quán, quà, quạ...), không có "q" thì đặt vào "u" (túa, múa, chùa...). Hoặc để giản tiện cho việc làm bộ gõ, có thể coi "qu" như là một tổ hợp phụ âm đầu tương tự như "gi, nh, ng, ph, th"... Khi đó, sẽ coi "quán, quà, quạ"... như là những âm tiết có âm đệm /zero/.
Quy tắc sử dụng chữ I và Y
Trừ tên riêng, đề xuất tương đối hợp lí cách dùng hai chữ i-ngắn và y-dài hiện nay như sau:
Đối với các âm tiết có phụ âm đầu /ʔ/, âm đệm /zero/, âm chính /i/ và âm cuối /zero/, thì có hai cách viết:
Dùng "i" trong các trường hợp từ thuần Việt, cụ thể là: i - i tờ; ì - ì, ì ạch, ì à ì ạch, ì ầm, ì oạp; ỉ - lợn ỉ, ỉ eo, ỉ ôi; í - í a í ới, í oắng, í ới; ị - ị, béo ị
Dùng "y" trong các trường hợp còn lại (thường là từ Hán-Việt), ví dụ: y - y tế, y nguyên, y phục; ỷ - ỷ lại; ý - ý nghĩa, ý kiến...
Đối với các âm tiết có âm đệm /zero/ và âm chính /ie/ thì dùng "i". Ví dụ: ỉa, chịa, đĩa, tía... kiến, miền, thiến... Trừ trường hợp có âm đầu /ʔ/ và âm cuối không /zero/ thì dùng "y": yếm, yến, yêng, yêu...
Đối với các âm tiết có âm đệm /w/, âm chính là /i/ hoặc /ie/ thì dùng "y". Ví dụ: huy, quý, quýt... khuya, tuya, xuya... quyến, chuyền, tuyết, thuyết...
Việc biểu diễn nguyên âm /i/ trong các trường hợp còn lại (âm đệm /zero/) thì dùng "i". Ví dụ: inh, ích, ít... bi, chi, hi, kì, khi, lí, mì, phi, ti, si, vi... bình, chính, hít, kim, lịm, mỉm, nín, phình, tính, sinh, vinh...
Việc biểu diễn âm cuối /-j/ không có gì thay đổi, vẫn dùng "y" trong các trường hợp có nguyên âm chính ngắn: (bàn) tay, (thợ) may, tây, sấy... và dùng "i" trong các trường hợp còn lại: (lỗ) tai, (ngày) mai, cơi, coi, côi...
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc vị trí đặt dấu thanh, quan điểm tương đối hợp lí hiện nay như sau:
Với các âm tiết [-tròn môi] (âm đệm /zero/) có âm chính là nguyên âm đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của chữ cái biểu diễn cho âm chính đó. Ví dụ: á, tã, nhà, nhãn, gánh, ngáng...
Với các âm tiết [+tròn môi] (âm đệm /w/, được biểu diễn bằng "o, u") có âm chính là nguyên âm đơn thì cũng bỏ dấu thanh điệu vào vị trí chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: hoà, hoè, quỳ, quà, quờ, thuỷ, nguỵ, hoàn, quét, quát, quỵt, suýt...
Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi:
Nếu là âm tiết [-khép] (nguyên âm được viết là: "iê, yê, uô, ươ"; âm cuối được viết bằng: "p, t, c, ch, m, n, ng, nh, o, u, i") thì bỏ dấu lên chữ cái thứ hai trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: yếu, uốn, ườn, tiến, chuyến, muốn, mượn, thiện, thuộm, người, viếng, muống, cường...
Nếu là âm tiết [+khép] (nguyên âm được viết là: "ia, ya, ua, ưa") thì nhất loạt bỏ dấu vào vị trí chữ cái thứ nhất trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: ỉa, tủa, cứa, thùa, khứa...
Phân biệt vị trí đặt dấu thanh điệu ở tổ hợp "ua" và "ia":
Với "ia" thì thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "g" ở đầu âm tiết. Có "g" thì đặt vào "a" (già, giá, giả...), không có "g" thì đặt vào "i" (bịa, chìa, tía...). Trường hợp đặc biệt: "gịa" (có trong từ "giặt gịa" và đọc là zịa).
Với "ua" thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "q". Có "q" thì đặt vào "a" (quán, quà, quạ...), không có "q" thì đặt vào "u" (túa, múa, chùa...). Hoặc để giản tiện cho việc làm bộ gõ, có thể coi "qu" như là một tổ hợp phụ âm đầu tương tự như "gi, nh, ng, ph, th"... Khi đó, sẽ coi "quán, quà, quạ"... như là những âm tiết có âm đệm /zero/.
Quy tắc sử dụng chữ I và Y
Trừ tên riêng, đề xuất tương đối hợp lí cách dùng hai chữ i-ngắn và y-dài hiện nay như sau:
Đối với các âm tiết có phụ âm đầu /ʔ/, âm đệm /zero/, âm chính /i/ và âm cuối /zero/, thì có hai cách viết:
Dùng "i" trong các trường hợp từ thuần Việt, cụ thể là: i - i tờ; ì - ì, ì ạch, ì à ì ạch, ì ầm, ì oạp; ỉ - lợn ỉ, ỉ eo, ỉ ôi; í - í a í ới, í oắng, í ới; ị - ị, béo ị
Dùng "y" trong các trường hợp còn lại (thường là từ Hán-Việt), ví dụ: y - y tế, y nguyên, y phục; ỷ - ỷ lại; ý - ý nghĩa, ý kiến...
Đối với các âm tiết có âm đệm /zero/ và âm chính /ie/ thì dùng "i". Ví dụ: ỉa, chịa, đĩa, tía... kiến, miền, thiến... Trừ trường hợp có âm đầu /ʔ/ và âm cuối không /zero/ thì dùng "y": yếm, yến, yêng, yêu...
Đối với các âm tiết có âm đệm /w/, âm chính là /i/ hoặc /ie/ thì dùng "y". Ví dụ: huy, quý, quýt... khuya, tuya, xuya... quyến, chuyền, tuyết, thuyết...
Việc biểu diễn nguyên âm /i/ trong các trường hợp còn lại (âm đệm /zero/) thì dùng "i". Ví dụ: inh, ích, ít... bi, chi, hi, kì, khi, lí, mì, phi, ti, si, vi... bình, chính, hít, kim, lịm, mỉm, nín, phình, tính, sinh, vinh...
Việc biểu diễn âm cuối /-j/ không có gì thay đổi, vẫn dùng "y" trong các trường hợp có nguyên âm chính ngắn: (bàn) tay, (thợ) may, tây, sấy... và dùng "i" trong các trường hợp còn lại: (lỗ) tai, (ngày) mai, cơi, coi, côi...
Ý nghĩa ngữ pháp
1. Theo Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (Phần Trừu tượng ngữ pháp, ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp [1] )
Các đơn vị ngôn ngữ là kết quả của quá trình trừu tượng hoá khác nhau về chất.
Trong từ vựng, từ là cái đại diện cho hàng loạt sự vật đã được khái quát hoá thành tên gọi. Tên gọi của sự vật không tương ứng với từng sự vật riêng lẻ mà với cả lớp sự vật có cùng bản chất. Từ "cây" chẳng hạn không biểu hiện một cây cụ thể nào mà là khái niệm cây. Đó là tên gọi cho hàng loạt: cây mít, cây ổi; cây cao, cây thấp; cây già, cây non; cây to, cây nhỏ v.v...
Trong ngữ âm, âm vị cũng là một đơn vị trừu tượng, khái quát. Âm vị trừu tượng mang trong nó những đặc trưng khu biệt được khái quát hoá từ hàng loạt âm tố cụ thể. Âm vị /n/ chẳng hạn, là sự khái quát hoá các nét khu biệt từ các âm tố [n1], [n1], [n3]... Đúng như V.I. Lenin đã nhận xét: "Trong ngôn ngữ chỉ có cái khái quát mà thôi".
Trừu tượng trong ngữ pháp có phần khác với trừu tượng trong từ vựng và trong ngữ âm. Trừu tượng ngữ pháp là trừu tượng mang ý nghĩa phạm trù. Phạm trù số trong tiếng Anh và tiếng Nga chẳng hạn là khái quát từ hai khía cạnh đối lập của ý nghĩa ít và nhiều. Phạm trù thể trong tiếng Nga là khái quát hai ý nghĩa hoàn thành và không hoàn thành.
Ví dụ trong tiếng Anh:
Số ít: boyø penø bookø ... ø
Số nhiều: boys pens books ... s
Như vậy, không chỉ từ vựng học mà cả ngữ pháp học cũng quan tâm đến ý nghĩa. Nhưng nếu như từ vựng học quan tâm đến ý nghĩa từ vựng, tức là ý nghĩ sự vật, của từ thì ngữ pháp học lại quan tâm đến một kiểu ý nghĩa khác: ý nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa phạm trù. Đối với từ vựng học boy, pen, book là 3 từ khác nhau, bởi ý nghĩa sự vật của chúng khác nhau. Song theo quan điểm ngữ pháp, tất cả 3 từ trên đều thuộc về một loại: danh từ số ít.
Ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa từ vựng gắn liền mật thiết với nhau. Từ với tư cách là một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ vốn có cả hai ý nghĩa đó. Ý nghĩa từ vựng phân biệt một từ với hàng loạt từ khác còn ý nghĩa ngữ pháp thì thống nhất các từ trong nhóm lại. Ý nghĩa ngữ pháp là sự trừu tượng hoá từ ý nghĩa từ vựng. Ý nghĩa ngữ pháp đi kèm với ý nghĩa từ vựng và không thể tồn tại tách khỏi ý nghĩa từ vựng.
Có thể rút ra hệ luận: Mỗi hiện tượng ngữ pháp luôn luôn có hai mặt: mặt bên trong, tức là cái được biểu hiện và mặt bên ngoài, tức là nhờ cách gì mà nó được biểu hiện. Quan hệ giữa hai mặt này như hai mặt của một bàn tay, còn sự tương ứng giữa chúng có thể là (1)–(1) hoặc (1)–(>1). Vấn đề này sẽ được xem xét kĩ hơn khi chúng ta đề cập đến khái niệm ý nghĩa ngữ pháp và phương thức ngữ pháp.
2. Theo Dẫn luận ngôn ngữ học (Phần Ý nghĩa ngữ pháp [2] )
2.1. Ý nghĩa ngữ pháp là gì?
Khi nói đến ý nghĩa trong ngôn ngữ, người ta thường nghĩ ngay đến nghĩa riêng của từng đơn vị (từ, câu...). Ý nghĩa riêng của từng từ được gọi là ý nghĩa từ vựng, còn ý nghĩa riêng của từng câu cũng thuộc phạm trù ý nghĩa từ vựng vì nó do ý nghĩa từng vựng của các từ trong câu trực tiếp tạo nên.
Bên cạnh loại ý nghĩa trên, mỗi loạt đơn vị còn có ít nhất một ý nghĩa chung bao trùm lên. Chẳng hạn 3 từ boy, pen, book đề có ý nghĩa chung là "sự vật" và "số ít"... Loại ý nghĩa chung bao trùm lên một loạt đơn vị ngôn ngữ như vậy gọi là ý nghĩa ngữ pháp.
Là ý nghĩa chung của hàng loạt từ, hàng loạt câu, ý nghĩa ngữ pháp có tính khái quát hoá cao hơn ý nghĩa từ vựng. Có thể nói, ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa vật thể, còn ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa siêu vật thể hay phi vật thể.
Cũng như ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp phải được thể hiện ra bằng những hình thức nhất định. Có điều, mỗi loại ý nghĩa tìm cho mình một loại phương tiện biểu hiện riêng: Đối với việc biểu đạt ý nghĩa từ vựng, phương tiện ấy là phương tiện từ vựng. Còn phương tiện thích hợp để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp là phương tiện ngữ pháp. Ví dụ các ý nghĩa từ vựng chỉ "cái bút", "quyển sách"... trong tiếng Anh được thể hiện bằng những từ tương ứng; trong khi đó, ý nghĩa ngữ pháp "số nhiều" của các từ này thì được thể hiện bằng phụ tố s, và ý nghĩa ngữ pháp "số ít" thì được thể hiện bằng phụ tố zero.
Không thể nói tới sự tồn tại của một ý nghĩa ngữ pháp nào đó trong một ngôn ngữ nhất định nếu không tìm thấy phương tiện ngữ pháp diễn đạt nó. Ví dụ, trong tiếng Việt, "giống đực", "giống cái" không phải là các ý nghĩa ngữ pháp. Nhưng trong tiếng Nga, tiếng Pháp, các ý nghĩa về giống được thể hiện bằng phụ tố hoặc hư từ, tức là bằng các phương tiện ngữ pháp. Ở các ngôn ngữ này, nhận thức về giống trong tư duy đã được hiện thực hoá thành ý nghĩa ngữ pháp.
Có thể đưa ra một định nghĩa tóm lược những điểm chính yếu về ý nghĩa ngữ pháp: Ý nghĩa ngữ pháp là loại ý nghĩa chung cho hàng loạt đơn vị ngôn ngữ và được thể hiện bằng những phương tiện ngữ pháp nhất định.
2.2. Các loại ý nghĩa ngữ pháp
Có nhiều hướng phân loại ý nghĩa ngữ pháp:
a. Ý nghĩa quan hệ – Ý nghĩa tự thân
Ý nghĩa quan hệ là loại ý nghĩa do mối quan hệ của đơn vị ngôn ngữ với các đơn vị khác trong lời nói đem lại. Ví dụ, trong câu Mèo đuổi chuột, từ mèo biểu thị "chủ thể" của hành động vồ, còn từ chuột biểu thị "đối tượng". Nhưng trong câu Chuột lừa mèo thì từ chuột mang ý nghĩa "chủ thể" và từ mèo mang ý nghĩa "đối tượng" của hành động. Các ý nghĩa "chủ thể", "đối tượng" chỉ nảy sinh do những mối quan hệ giữa các từ trong các câu cụ thể. Chúng là những ý nghĩa quan hệ [3] . Ngược lại, trong cả hai câu nói trên cũng như trong từ điển, các từ mèo và chuột đều biểu thị "sự vật", các từ vồ và lừa đều mang ý nghĩa "hành động". Điều này không phụ thuộc vào các quan hệ ngữ pháp. Những ý nghĩa ngữ pháp không phụ thuộc vào các quan hệ ngữ pháp như vậy gọi là nghĩa tự thân. Các ý nghĩa ngữ pháp khác như "giống cái", "giống đực", "số ít", "số nhiều" của danh từ, hay "thời hiện tại", "thời quá khứ", "thời tương lai" của động từ... cũng thuộc vào loại ý nghĩa tự thân.
b. Ý nghĩa thường trực – Ý nghĩa lâm thời
Ý nghĩa thường trực là loại ý nghĩa ngữ pháp luôn luôn đi kèm ỳ nghĩa từ vựng, có mặt trong mọi dạng thức của đơn vị, ví dụ: ý nghĩa "sự vật" của mọi danh từ trong các ngôn ngữ khác nhau; ý nghĩa "giống đực", "giống cái" của danh từ tiếng Nga, tiếng Pháp...
Ý nghĩa lâm thời là loại ý nghĩa chỉ xuất hiện ở một số dạng thức nhất định của đơn vị, như: các ý nghĩa "chủ thể", "đối tượng", "số ít", "số nhiều"... của danh từ; "thời hiện tại", "thời quá khứ", "thời tương lai" của động từ...
Có một điều cần lưu ý là khi xem xét tính chất thường trực hoặc lâm thời của mỗi ý nghĩa ngữ pháp, ta cần xuất phát từ thức tế của từng ngôn ngữ, từng từ loại cụ thể. Không có một cái khuôn phân loại chung cho tất cả các ngôn ngữ. Ví dụ: các ý nghĩa "hoàn thành thể", không "hoàn thành thể" của động từ tiếng Nga là ý nghĩa thường trực, còn ở tiếng Anh, tiếng Pháp, mỗi ý nghĩa về thể chỉ gắn với một số dạng thức của động từ.
1. Theo Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (Phần Trừu tượng ngữ pháp, ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp [1] )
Các đơn vị ngôn ngữ là kết quả của quá trình trừu tượng hoá khác nhau về chất.
Trong từ vựng, từ là cái đại diện cho hàng loạt sự vật đã được khái quát hoá thành tên gọi. Tên gọi của sự vật không tương ứng với từng sự vật riêng lẻ mà với cả lớp sự vật có cùng bản chất. Từ "cây" chẳng hạn không biểu hiện một cây cụ thể nào mà là khái niệm cây. Đó là tên gọi cho hàng loạt: cây mít, cây ổi; cây cao, cây thấp; cây già, cây non; cây to, cây nhỏ v.v...
Trong ngữ âm, âm vị cũng là một đơn vị trừu tượng, khái quát. Âm vị trừu tượng mang trong nó những đặc trưng khu biệt được khái quát hoá từ hàng loạt âm tố cụ thể. Âm vị /n/ chẳng hạn, là sự khái quát hoá các nét khu biệt từ các âm tố [n1], [n1], [n3]... Đúng như V.I. Lenin đã nhận xét: "Trong ngôn ngữ chỉ có cái khái quát mà thôi".
Trừu tượng trong ngữ pháp có phần khác với trừu tượng trong từ vựng và trong ngữ âm. Trừu tượng ngữ pháp là trừu tượng mang ý nghĩa phạm trù. Phạm trù số trong tiếng Anh và tiếng Nga chẳng hạn là khái quát từ hai khía cạnh đối lập của ý nghĩa ít và nhiều. Phạm trù thể trong tiếng Nga là khái quát hai ý nghĩa hoàn thành và không hoàn thành.
Ví dụ trong tiếng Anh:
Số ít: boyø penø bookø ... ø
Số nhiều: boys pens books ... s
Như vậy, không chỉ từ vựng học mà cả ngữ pháp học cũng quan tâm đến ý nghĩa. Nhưng nếu như từ vựng học quan tâm đến ý nghĩa từ vựng, tức là ý nghĩ sự vật, của từ thì ngữ pháp học lại quan tâm đến một kiểu ý nghĩa khác: ý nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa phạm trù. Đối với từ vựng học boy, pen, book là 3 từ khác nhau, bởi ý nghĩa sự vật của chúng khác nhau. Song theo quan điểm ngữ pháp, tất cả 3 từ trên đều thuộc về một loại: danh từ số ít.
Ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa từ vựng gắn liền mật thiết với nhau. Từ với tư cách là một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ vốn có cả hai ý nghĩa đó. Ý nghĩa từ vựng phân biệt một từ với hàng loạt từ khác còn ý nghĩa ngữ pháp thì thống nhất các từ trong nhóm lại. Ý nghĩa ngữ pháp là sự trừu tượng hoá từ ý nghĩa từ vựng. Ý nghĩa ngữ pháp đi kèm với ý nghĩa từ vựng và không thể tồn tại tách khỏi ý nghĩa từ vựng.
Có thể rút ra hệ luận: Mỗi hiện tượng ngữ pháp luôn luôn có hai mặt: mặt bên trong, tức là cái được biểu hiện và mặt bên ngoài, tức là nhờ cách gì mà nó được biểu hiện. Quan hệ giữa hai mặt này như hai mặt của một bàn tay, còn sự tương ứng giữa chúng có thể là (1)–(1) hoặc (1)–(>1). Vấn đề này sẽ được xem xét kĩ hơn khi chúng ta đề cập đến khái niệm ý nghĩa ngữ pháp và phương thức ngữ pháp.
2. Theo Dẫn luận ngôn ngữ học (Phần Ý nghĩa ngữ pháp [2] )
2.1. Ý nghĩa ngữ pháp là gì?
Khi nói đến ý nghĩa trong ngôn ngữ, người ta thường nghĩ ngay đến nghĩa riêng của từng đơn vị (từ, câu...). Ý nghĩa riêng của từng từ được gọi là ý nghĩa từ vựng, còn ý nghĩa riêng của từng câu cũng thuộc phạm trù ý nghĩa từ vựng vì nó do ý nghĩa từng vựng của các từ trong câu trực tiếp tạo nên.
Bên cạnh loại ý nghĩa trên, mỗi loạt đơn vị còn có ít nhất một ý nghĩa chung bao trùm lên. Chẳng hạn 3 từ boy, pen, book đề có ý nghĩa chung là "sự vật" và "số ít"... Loại ý nghĩa chung bao trùm lên một loạt đơn vị ngôn ngữ như vậy gọi là ý nghĩa ngữ pháp.
Là ý nghĩa chung của hàng loạt từ, hàng loạt câu, ý nghĩa ngữ pháp có tính khái quát hoá cao hơn ý nghĩa từ vựng. Có thể nói, ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa vật thể, còn ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa siêu vật thể hay phi vật thể.
Cũng như ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp phải được thể hiện ra bằng những hình thức nhất định. Có điều, mỗi loại ý nghĩa tìm cho mình một loại phương tiện biểu hiện riêng: Đối với việc biểu đạt ý nghĩa từ vựng, phương tiện ấy là phương tiện từ vựng. Còn phương tiện thích hợp để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp là phương tiện ngữ pháp. Ví dụ các ý nghĩa từ vựng chỉ "cái bút", "quyển sách"... trong tiếng Anh được thể hiện bằng những từ tương ứng; trong khi đó, ý nghĩa ngữ pháp "số nhiều" của các từ này thì được thể hiện bằng phụ tố s, và ý nghĩa ngữ pháp "số ít" thì được thể hiện bằng phụ tố zero.
Không thể nói tới sự tồn tại của một ý nghĩa ngữ pháp nào đó trong một ngôn ngữ nhất định nếu không tìm thấy phương tiện ngữ pháp diễn đạt nó. Ví dụ, trong tiếng Việt, "giống đực", "giống cái" không phải là các ý nghĩa ngữ pháp. Nhưng trong tiếng Nga, tiếng Pháp, các ý nghĩa về giống được thể hiện bằng phụ tố hoặc hư từ, tức là bằng các phương tiện ngữ pháp. Ở các ngôn ngữ này, nhận thức về giống trong tư duy đã được hiện thực hoá thành ý nghĩa ngữ pháp.
Có thể đưa ra một định nghĩa tóm lược những điểm chính yếu về ý nghĩa ngữ pháp: Ý nghĩa ngữ pháp là loại ý nghĩa chung cho hàng loạt đơn vị ngôn ngữ và được thể hiện bằng những phương tiện ngữ pháp nhất định.
2.2. Các loại ý nghĩa ngữ pháp
Có nhiều hướng phân loại ý nghĩa ngữ pháp:
a. Ý nghĩa quan hệ – Ý nghĩa tự thân
Ý nghĩa quan hệ là loại ý nghĩa do mối quan hệ của đơn vị ngôn ngữ với các đơn vị khác trong lời nói đem lại. Ví dụ, trong câu Mèo đuổi chuột, từ mèo biểu thị "chủ thể" của hành động vồ, còn từ chuột biểu thị "đối tượng". Nhưng trong câu Chuột lừa mèo thì từ chuột mang ý nghĩa "chủ thể" và từ mèo mang ý nghĩa "đối tượng" của hành động. Các ý nghĩa "chủ thể", "đối tượng" chỉ nảy sinh do những mối quan hệ giữa các từ trong các câu cụ thể. Chúng là những ý nghĩa quan hệ [3] . Ngược lại, trong cả hai câu nói trên cũng như trong từ điển, các từ mèo và chuột đều biểu thị "sự vật", các từ vồ và lừa đều mang ý nghĩa "hành động". Điều này không phụ thuộc vào các quan hệ ngữ pháp. Những ý nghĩa ngữ pháp không phụ thuộc vào các quan hệ ngữ pháp như vậy gọi là nghĩa tự thân. Các ý nghĩa ngữ pháp khác như "giống cái", "giống đực", "số ít", "số nhiều" của danh từ, hay "thời hiện tại", "thời quá khứ", "thời tương lai" của động từ... cũng thuộc vào loại ý nghĩa tự thân.
b. Ý nghĩa thường trực – Ý nghĩa lâm thời
Ý nghĩa thường trực là loại ý nghĩa ngữ pháp luôn luôn đi kèm ỳ nghĩa từ vựng, có mặt trong mọi dạng thức của đơn vị, ví dụ: ý nghĩa "sự vật" của mọi danh từ trong các ngôn ngữ khác nhau; ý nghĩa "giống đực", "giống cái" của danh từ tiếng Nga, tiếng Pháp...
Ý nghĩa lâm thời là loại ý nghĩa chỉ xuất hiện ở một số dạng thức nhất định của đơn vị, như: các ý nghĩa "chủ thể", "đối tượng", "số ít", "số nhiều"... của danh từ; "thời hiện tại", "thời quá khứ", "thời tương lai" của động từ...
Có một điều cần lưu ý là khi xem xét tính chất thường trực hoặc lâm thời của mỗi ý nghĩa ngữ pháp, ta cần xuất phát từ thức tế của từng ngôn ngữ, từng từ loại cụ thể. Không có một cái khuôn phân loại chung cho tất cả các ngôn ngữ. Ví dụ: các ý nghĩa "hoàn thành thể", không "hoàn thành thể" của động từ tiếng Nga là ý nghĩa thường trực, còn ở tiếng Anh, tiếng Pháp, mỗi ý nghĩa về thể chỉ gắn với một số dạng thức của động từ.
Trước nửa đầu thế kỷ thứ 19
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam từ thời lập quốc, dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường. Để phát triển, tự làm phong phú thêm, tiếng Việt trong thời kỳ này du nhập thêm những từ ngữ Hán cổ như đầu, gan, ghế, ông, bà, cậu..., từ đó hình thành nên hệ thống Hán-Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Bằng cách này, tiếng Việt đã làm giàu thêm từ vựng của mình bằng cách thêm vào hàng loạt các yếu tố Hán Việt. Như là tâm, minh, đức, thiên, tự do... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như nhiệt náo thành náo nhiệt, thích phóng thành phóng thích.... Hoặc được rút gọn như thừa trần thành trần (trong trần nhà), lạc hoa sinh thành lạc (trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng)...; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như phương phi trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", bồi hồi trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động".... Đặc biệt, và giầu sáng tạo hơn, là các yếu tố Hán-Việt được sử dụng để tạo nên những từ ngữ đặc trưng chỉ có trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ sĩ diện, phi công (dùng 2 yếu tố Hán-Việt) hay bao gồm, sống động (một yếu tố Hán kết hợp với một yếu tố thuần Việt). Nói chung tỉ lệ vay mượn tiếng Hán trong tiếng Việt khá lớn (khoảng 25%) nhưng đại đa số những từ đó đều là những từ văn hoá (những từ thể hiện trình độ phát triển của xã hội) và về cơ bản, và chúng đã được Việt hóa cho phù hợp với các điều kiện xã hội, văn hóa tại Việt Nam. Do vậy tiếng Việt vừa giữ được bản sắc riêng của mình, vừa phát triển, tiến hóa và hoàn thiện dần theo nhu cầu và trình độ phát triển của xã hội.
Kể từ đầu thế kỷ thứ 11, Nho học phát triển, việc học văn tự chữ Nho được đẩy mạnh, tầng lớp trí thức được mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng chữ Nho cực kỳ phát triển với cái áng văn thư nổi tiếng như bài thơ thần của Lý Thường Kiệt bên sông Như Nguyệt (Sông Cầu). Cùng thời gian này, một hệ thống chữ viết được xây dựng riêng cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết được phát triển, và đó chính là chữ Nôm. Nhờ có chữ Nôm, văn học Việt Nam đã có những bước phát triển rực rỡ nhất, đạt đỉnh cao với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tiếng Việt, được thể hiện bằng chữ Nôm ở những thời kỳ sau này về cơ bản rất gần với tiếng Việt ngày nay. Tuy hầu hết mọi người Việt đều có thể nghe và hiểu văn bản bằng chữ Nôm, chỉ những người có học chữ Nôm mới có thể đọc và viết được chữ Nôm.
Chữ Nôm được chính thức dùng trong hành chính khi vua Quang Trung lên ngôi vào năm 1789
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam từ thời lập quốc, dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường. Để phát triển, tự làm phong phú thêm, tiếng Việt trong thời kỳ này du nhập thêm những từ ngữ Hán cổ như đầu, gan, ghế, ông, bà, cậu..., từ đó hình thành nên hệ thống Hán-Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Bằng cách này, tiếng Việt đã làm giàu thêm từ vựng của mình bằng cách thêm vào hàng loạt các yếu tố Hán Việt. Như là tâm, minh, đức, thiên, tự do... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như nhiệt náo thành náo nhiệt, thích phóng thành phóng thích.... Hoặc được rút gọn như thừa trần thành trần (trong trần nhà), lạc hoa sinh thành lạc (trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng)...; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như phương phi trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", bồi hồi trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động".... Đặc biệt, và giầu sáng tạo hơn, là các yếu tố Hán-Việt được sử dụng để tạo nên những từ ngữ đặc trưng chỉ có trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ sĩ diện, phi công (dùng 2 yếu tố Hán-Việt) hay bao gồm, sống động (một yếu tố Hán kết hợp với một yếu tố thuần Việt). Nói chung tỉ lệ vay mượn tiếng Hán trong tiếng Việt khá lớn (khoảng 25%) nhưng đại đa số những từ đó đều là những từ văn hoá (những từ thể hiện trình độ phát triển của xã hội) và về cơ bản, và chúng đã được Việt hóa cho phù hợp với các điều kiện xã hội, văn hóa tại Việt Nam. Do vậy tiếng Việt vừa giữ được bản sắc riêng của mình, vừa phát triển, tiến hóa và hoàn thiện dần theo nhu cầu và trình độ phát triển của xã hội.
Kể từ đầu thế kỷ thứ 11, Nho học phát triển, việc học văn tự chữ Nho được đẩy mạnh, tầng lớp trí thức được mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng chữ Nho cực kỳ phát triển với cái áng văn thư nổi tiếng như bài thơ thần của Lý Thường Kiệt bên sông Như Nguyệt (Sông Cầu). Cùng thời gian này, một hệ thống chữ viết được xây dựng riêng cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết được phát triển, và đó chính là chữ Nôm. Nhờ có chữ Nôm, văn học Việt Nam đã có những bước phát triển rực rỡ nhất, đạt đỉnh cao với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tiếng Việt, được thể hiện bằng chữ Nôm ở những thời kỳ sau này về cơ bản rất gần với tiếng Việt ngày nay. Tuy hầu hết mọi người Việt đều có thể nghe và hiểu văn bản bằng chữ Nôm, chỉ những người có học chữ Nôm mới có thể đọc và viết được chữ Nôm.
Chữ Nôm được chính thức dùng trong hành chính khi vua Quang Trung lên ngôi vào năm 1789
Thời kỳ thuộc địa Pháp
Kể từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ 19, tiếng Pháp dần dần thay thế vị trí của chữ Nho như là ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính, và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes tác giả cuốn từ điển Việt-Bồ-La và Ngữ pháp tiếng An Nam năm 1651, với mục đích dùng ký tự Latinh để biểu diễn tiếng Việt, ngày càng được phổ biến, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của văn hóa Tây phương (chủ yếu là từ ngôn ngữ – văn hóa Pháp) như phanh, lốp, găng, pê đan... và các từ Hán-Việt như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính... Tờ báo "Gia Định báo" là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam độc lập sau này.
Kể từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ 19, tiếng Pháp dần dần thay thế vị trí của chữ Nho như là ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính, và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes tác giả cuốn từ điển Việt-Bồ-La và Ngữ pháp tiếng An Nam năm 1651, với mục đích dùng ký tự Latinh để biểu diễn tiếng Việt, ngày càng được phổ biến, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của văn hóa Tây phương (chủ yếu là từ ngôn ngữ – văn hóa Pháp) như phanh, lốp, găng, pê đan... và các từ Hán-Việt như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính... Tờ báo "Gia Định báo" là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam độc lập sau này.
Bản Tuyên ngôn Độc lập được thảo bằng chữ Quốc ngữ do Hồ Chí Minh đọc đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam độc lập, đồng thời gián tiếp khẳng định vị trí của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam. Chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, chỉ sử dụng 27 ký tự Latinh và 6 dấu thanh, đơn giản, tiện lợi và có tính khoa học cao, dễ học, dễ nhớ, thông dụng; thay thế hoàn toàn tiếng Pháp và tiếng Hán vốn khó đọc, khó nhớ, không thông dụng.
Trong thời kỳ đất nước chia cách sau Hiệp định Genever, sự phát triển tiếng Việt giữa miền Bắc và miền Nam có chiều hướng khác nhau. Vì lý do chính trị và kinh tế, chính quyền miền Bắc có mối quan hệ sâu xa với Trung Quốc, và sự hiện diện của các chuyên viên nhân sự Trung Quốc đưa nhiều từ Bạch Thoại (ngôn ngữ nói của Trung Quốc) vào ngữ vựng tiếng Việt. Những từ này thường có gốc Hán Việt, nhưng thường đổi ngược thứ tự hay có nghĩa mới. Tại miền Nam, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ đã đem nhiều từ Anh ngữ vào ngữ vựng tiếng Việt.
Sau khi thống nhất, quan hệ bắc-nam được kết nối lại. Gần đây, sự phổ biến của các phương tiện truyền thanh và truyền hình toàn quốc đã làm tiếng Việt được chuẩn hóa một phần nào.
Phân bổ
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam, và cũng là ngôn ngữ phổ thông trong các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Thêm vào đó, tiếng Việt được sử dụng bởi hơn 1 triệu người tại Hoa Kỳ (đứng thứ 7 toàn quốc, thứ 3 tại Texas, thứ 4 tại Arkansas và Louisiana, và thứ 5 tại California), và trên 100.000 người tại Canada và Úc (đứng thứ 6 toàn quốc).
Theo Ethnologue [2], tiếng Việt còn được nhiều người sử dụng tại Anh, Ba Lan, Campuchia, Côte d'Ivoire, Đức, Hà Lan, Lào, Na Uy, Nouvelle-Calédonie, Phần Lan, Pháp, Philippines, Cộng hòa Séc, Sénégal, Thái Lan, Trung Quốc và Vanuatu. Tiếng Việt cũng còn được dùng bởi những người Việt sống tại Đài Loan, Nga, ...
Cách viết
Hiện nay, tiếng Việt dùng hệ chữ viết như ký tự Latinh gọi là Quốc ngữ. Theo tài liệu của những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lúc trước, chữ Quốc ngữ phát triển từ thế kỷ thứ 17, do công của một nhà truyền giáo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes (1591–1660). Sau cuộc xâm lăng của người Pháp giữa thế kỷ thứ 19, Quốc ngữ trở nên thịnh hành và hầu như tất cả các văn bản viết đều dùng Quốc ngữ. Trước đó, người Việt dùng hai loại chữ viết là chữ Nho (chữ Hán đọc theo cách Việt Nam – ngôn ngữ hành chính), và chữ Nôm (mô phỏng chữ Nho để viết chữ 'thuần Việt' – ngôn ngữ dân gian).Ngày nay, chữ Nho và chữ Nôm không còn thông dụng ở Việt Nam, chữ Nôm đã bị mai một nhiều
Cách phát âm
Trong tiếng Việt có sáu thanh: ngang (không dấu: a), huyền (nghiêng trái: à), sắc (nghiêng phải: á), hỏi (dấu hỏi: ả), ngã (dấu ngã: ã), và nặng (dấu chấm: ạ). Tất cả các dấu đều được đặt trên nguyên âm, riêng dấu nặng được đặt dưới nguyên âm.
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm, nhưng những từ ghép cũng có nhiều. Nguyên âm đôi và nguyên âm ba rất thông thường. Tiếng Việt có nhiều tiếng địa phương, trong đó có giọng Bắc (Hà Nội), giọng Trung (Huế), và giọng Nam (Sài Gòn) là ba phân loại chính. Những tiếng địa phương này khác nhau ở giọng điệu và từ địa phương. Thanh hỏi và thanh ngã ở miền Bắc rõ hơn ở miền Nam. Tiếng Huế khó hiểu hơn những tiếng khác vì có nhiều từ địa phương. Cách đọc tiêu chuẩn hiện nay được dựa vào giọng Hà Nội.
Chính tả
Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tham khảo rất nhiều qua những thảo luận về chính tả tiếng Việt, thậm chí đã quay ngược lại lịch sử từ năm 1902 khi Hội nghị Khảo cứu Viễn Đông được tổ chức tại đây, vấn đề về chữ Quốc Ngữ đã được Uỷ ban Cải cách Chữ Quốc Ngữ đề nghị lên chính phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều thảo luận được tổ chức nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt.
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam, và cũng là ngôn ngữ phổ thông trong các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Thêm vào đó, tiếng Việt được sử dụng bởi hơn 1 triệu người tại Hoa Kỳ (đứng thứ 7 toàn quốc, thứ 3 tại Texas, thứ 4 tại Arkansas và Louisiana, và thứ 5 tại California), và trên 100.000 người tại Canada và Úc (đứng thứ 6 toàn quốc).
Theo Ethnologue [2], tiếng Việt còn được nhiều người sử dụng tại Anh, Ba Lan, Campuchia, Côte d'Ivoire, Đức, Hà Lan, Lào, Na Uy, Nouvelle-Calédonie, Phần Lan, Pháp, Philippines, Cộng hòa Séc, Sénégal, Thái Lan, Trung Quốc và Vanuatu. Tiếng Việt cũng còn được dùng bởi những người Việt sống tại Đài Loan, Nga, ...
Cách viết
Hiện nay, tiếng Việt dùng hệ chữ viết như ký tự Latinh gọi là Quốc ngữ. Theo tài liệu của những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lúc trước, chữ Quốc ngữ phát triển từ thế kỷ thứ 17, do công của một nhà truyền giáo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes (1591–1660). Sau cuộc xâm lăng của người Pháp giữa thế kỷ thứ 19, Quốc ngữ trở nên thịnh hành và hầu như tất cả các văn bản viết đều dùng Quốc ngữ. Trước đó, người Việt dùng hai loại chữ viết là chữ Nho (chữ Hán đọc theo cách Việt Nam – ngôn ngữ hành chính), và chữ Nôm (mô phỏng chữ Nho để viết chữ 'thuần Việt' – ngôn ngữ dân gian).Ngày nay, chữ Nho và chữ Nôm không còn thông dụng ở Việt Nam, chữ Nôm đã bị mai một nhiều
Cách phát âm
Trong tiếng Việt có sáu thanh: ngang (không dấu: a), huyền (nghiêng trái: à), sắc (nghiêng phải: á), hỏi (dấu hỏi: ả), ngã (dấu ngã: ã), và nặng (dấu chấm: ạ). Tất cả các dấu đều được đặt trên nguyên âm, riêng dấu nặng được đặt dưới nguyên âm.
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm, nhưng những từ ghép cũng có nhiều. Nguyên âm đôi và nguyên âm ba rất thông thường. Tiếng Việt có nhiều tiếng địa phương, trong đó có giọng Bắc (Hà Nội), giọng Trung (Huế), và giọng Nam (Sài Gòn) là ba phân loại chính. Những tiếng địa phương này khác nhau ở giọng điệu và từ địa phương. Thanh hỏi và thanh ngã ở miền Bắc rõ hơn ở miền Nam. Tiếng Huế khó hiểu hơn những tiếng khác vì có nhiều từ địa phương. Cách đọc tiêu chuẩn hiện nay được dựa vào giọng Hà Nội.
Chính tả
Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tham khảo rất nhiều qua những thảo luận về chính tả tiếng Việt, thậm chí đã quay ngược lại lịch sử từ năm 1902 khi Hội nghị Khảo cứu Viễn Đông được tổ chức tại đây, vấn đề về chữ Quốc Ngữ đã được Uỷ ban Cải cách Chữ Quốc Ngữ đề nghị lên chính phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều thảo luận được tổ chức nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt.